Cách điều trị ung thư gan bằng sóng cao tần đối với ung thư gan nguyên phát
Do vậy, hiện nay trên thế giới có nhiều phương pháp điều trị thay thế đã ra đời như thuyên tắc động mạch gan (HAE – Hepatic arterial embolization), hoặc hoá trị - thuyên tắc (TACE – Transarterial chemoembolization), chích cồn qua da (PEI – percutaneous ethanol injection), điều trị nhiệt đông (cryotherapy) qua da, nội soi hay mở bụng, hủy u bằng cách dùng sóng cao tần (RFA – Radiofrequency ablation)…Ở đây chúng tôi chỉ tập trung vào việc ứng dụng RFA trong điều trị ung thư gan nguyên phát
RFA là gì?
- RFA (Radiofrequency Ablation) là phương pháp hủy khối u bằng nhiệt gây ra do bởi sự ma sát của các i-ôn trong mô dưới tác động của dòng điện xoay chiều có tần số nằm trong khoảng sóng âm thanh (200-1200 MHz). Dòng điện từ máy được truyền vào khối u qua một điện cực dạng kim (needle electrode), dòng sóng radio được truyền vào đầu kim và sinh nhiệt. Nhiệt do ma sát làm khô mô xung quanh dẫn đến làm mất nước trong tế bào và hoại tử đông khối u.
Sóng radio được truyền vào đầu kim và sinh nhiệt để phá hủy u
Hiệu quả và lợi ích
- Tùy thuộc vào kích thước của khối u, RFA có thể được thực hiện 1 hay nhiều lần với mục đích hủy toàn bộ khối u. Thông thường, tổn thương có kích thước dưới 3 cm đòi hỏi 1 hoặc 2 lần điều trị, những tổn thương trên 4 cm có thể cần đến 5 hoặc 6 lần điều trị để có được ranh giới an toàn của việc điều trị ung thư (cách bờ khối u ≥1 cm). Việc quyết định điều trị lại cho bệnh nhân khi có bằng chứng còn sót mô ung thư trên hình ảnh chụp cắt lớp điện toán sau 1 tháng.
- Trong ung thư gan nguyên phát, khi kích thước u nhỏ (<3,5 cm), tỉ lệ sống trung bình sau 1, 3, và 5 năm điều trị RFA tương ứng là 94%, 68%, và 40%.
Theo các báo cáo trên thế giới, thủ thuật này rất ít khi gây biến chứng nặng, tỉ lệ biến chứng nhẹ khoảng 2-3%.
Quy trình thực hiện
- Sau khi đã có chẩn đoán xác định là ung thư gan nguyên phát hoặc từ vị trí khác di căn đến, thực hiện các xét nghiệm như một trường hợp chuẩn bị phẫu thuật thông thường, bác sĩ phẫu thuật sẽ đánh giá tình trạng bệnh để xét chỉ định và đưa ra kế hoạch điều trị. Thủ thuật thường được thực hiện trong phòng hình ảnh can thiệp (interventional room) hoặc tại phòng mổ (RFA qua da dưới hướng dẫn của siêu âm, qua nội soi ổ bụng hoặc mổ hở). Thủ thuật được thực hiện qua da, qua nội soi ổ bụng hoặc ngay trong lúc mổ bụng.
- RFA qua da với an thần nhẹ và gây tê tại chỗ, sau khi rạch một vết nhỏ trên da, kim điện cực được đưa vào vị trí u đã xác định trước dưới hướng dẫn của siêu âm hoặc chụp điện toán cắt lớp (CT-scan), khi vị trí kim đã chắc chắn (đầu kim đâm xuyên vào khối u khoảng 10 mm), thì kích hoạt máy để sinh nhiệt, thời gian hoạt động của máy khoảng 6 phút. Thời gian thực hiện thủ thuật trung bình cho 1 đợt điều trị kéo dài từ 20 đến 30 phút.
- Sau thủ thuật bệnh nhân được nằm theo dõi tại phòng hồi sức hoặc hậu phẫu khoảng 6 giờ, dùng thuốc giảm đau, kháng sinh dự phòng và bệnh nhân có thể xuất viện ngay trong ngày.
Chỉ định
- RFA là một phương pháp điều trị u gan đang được nghiên cứu, và đến nay vẫn chưa có chỉ định rõ ràng. RFA vẫn bị giới hạn ở những bệnh nhân quá chỉ định cắt gan.
- Có ≤4 tổn thương nhỏ (<5 cm) của ung thư gan nguyên phát hoặc u di căn từ ung thư đại trực tràng mà quá chỉ định phẫu thuật cắt gan do bởi.
* Tình trạng chung kém
* Xơ gan hoặc suy gan nhẹ và trung bình
* Vị trí u hoặc phân bố u làm cản trở việc cắt u
* Ung thư gan tái phát (tương đối)
* Bệnh nhân từ chối phẫu thuật
- Hủy u hỗ trợ trong lúc cắt gan không có khả năng cắt hết hoàn toàn u.
- Có ung thư gan nhỏ (<5 cm) đang chờ ghép gan
- Có ≤4 tổn thương di căn nhỏ (<5 cm) không phải từ ung thư đại trực tràng
- Tùy thuộc vào kích thước của khối u, RFA có thể được thực hiện 1 hay nhiều lần với mục đích hủy toàn bộ khối u. Thông thường, tổn thương có kích thước dưới 3 cm đòi hỏi 1 hoặc 2 lần điều trị, những tổn thương trên 4 cm có thể cần đến 5 hoặc 6 lần điều trị để có được ranh giới an toàn của việc điều trị ung thư (cách bờ khối u ≥1 cm). Việc quyết định điều trị lại cho bệnh nhân khi có bằng chứng còn sót mô ung thư trên hình ảnh chụp cắt lớp điện toán sau 1 tháng.
- Trong ung thư gan nguyên phát, khi kích thước u nhỏ (<3,5 cm), tỉ lệ sống trung bình sau 1, 3, và 5 năm điều trị RFA tương ứng là 94%, 68%, và 40%.
Theo các báo cáo trên thế giới, thủ thuật này rất ít khi gây biến chứng nặng, tỉ lệ biến chứng nhẹ khoảng 2-3%.
Quy trình thực hiện
- Sau khi đã có chẩn đoán xác định là ung thư gan nguyên phát hoặc từ vị trí khác di căn đến, thực hiện các xét nghiệm như một trường hợp chuẩn bị phẫu thuật thông thường, bác sĩ phẫu thuật sẽ đánh giá tình trạng bệnh để xét chỉ định và đưa ra kế hoạch điều trị. Thủ thuật thường được thực hiện trong phòng hình ảnh can thiệp (interventional room) hoặc tại phòng mổ (RFA qua da dưới hướng dẫn của siêu âm, qua nội soi ổ bụng hoặc mổ hở). Thủ thuật được thực hiện qua da, qua nội soi ổ bụng hoặc ngay trong lúc mổ bụng.
- RFA qua da với an thần nhẹ và gây tê tại chỗ, sau khi rạch một vết nhỏ trên da, kim điện cực được đưa vào vị trí u đã xác định trước dưới hướng dẫn của siêu âm hoặc chụp điện toán cắt lớp (CT-scan), khi vị trí kim đã chắc chắn (đầu kim đâm xuyên vào khối u khoảng 10 mm), thì kích hoạt máy để sinh nhiệt, thời gian hoạt động của máy khoảng 6 phút. Thời gian thực hiện thủ thuật trung bình cho 1 đợt điều trị kéo dài từ 20 đến 30 phút.
- Sau thủ thuật bệnh nhân được nằm theo dõi tại phòng hồi sức hoặc hậu phẫu khoảng 6 giờ, dùng thuốc giảm đau, kháng sinh dự phòng và bệnh nhân có thể xuất viện ngay trong ngày.
Chỉ định
- RFA là một phương pháp điều trị u gan đang được nghiên cứu, và đến nay vẫn chưa có chỉ định rõ ràng. RFA vẫn bị giới hạn ở những bệnh nhân quá chỉ định cắt gan.
- Có ≤4 tổn thương nhỏ (<5 cm) của ung thư gan nguyên phát hoặc u di căn từ ung thư đại trực tràng mà quá chỉ định phẫu thuật cắt gan do bởi.
* Tình trạng chung kém
* Xơ gan hoặc suy gan nhẹ và trung bình
* Vị trí u hoặc phân bố u làm cản trở việc cắt u
* Ung thư gan tái phát (tương đối)
* Bệnh nhân từ chối phẫu thuật
- Hủy u hỗ trợ trong lúc cắt gan không có khả năng cắt hết hoàn toàn u.
- Có ung thư gan nhỏ (<5 cm) đang chờ ghép gan
- Có ≤4 tổn thương di căn nhỏ (<5 cm) không phải từ ung thư đại trực tràng
Chống chỉ định
- Bệnh ngoài da vùng thực hiện thủ thuật
- Thời gian sống thêm dưới 6 tháng
- Có bệnh ác tính khác đang tiến triển
- Xơ gan hoặc suy gan nặng
- Tăng áp lực tĩnh mạch cửa hoặc huyết khối tĩnh mạch cửa
- Rối loạn tâm thần
- Dưới 18 tuổi
- Đang mang thai
- Bệnh phổi nặng
- Nhiễm trùng nặng
- Rối loạn đông máu kháng trị
- Tổn thương lớn (>5 cm) (tương đối)
- Nhiều tổn thương (>4 tổn thương) (tương đối)
- U nằm cạnh mạch máu lớn, màng ngoài tim, cơ hoành, hoặc tạng khác (tương đối)
Xem thêm: điều trị viêm gan | viêm gan cấp tính | tác hại của rượu | đầy bụng khó tiêu
- Bệnh ngoài da vùng thực hiện thủ thuật
- Thời gian sống thêm dưới 6 tháng
- Có bệnh ác tính khác đang tiến triển
- Xơ gan hoặc suy gan nặng
- Tăng áp lực tĩnh mạch cửa hoặc huyết khối tĩnh mạch cửa
- Rối loạn tâm thần
- Dưới 18 tuổi
- Đang mang thai
- Bệnh phổi nặng
- Nhiễm trùng nặng
- Rối loạn đông máu kháng trị
- Tổn thương lớn (>5 cm) (tương đối)
- Nhiều tổn thương (>4 tổn thương) (tương đối)
- U nằm cạnh mạch máu lớn, màng ngoài tim, cơ hoành, hoặc tạng khác (tương đối)
Xem thêm: điều trị viêm gan | viêm gan cấp tính | tác hại của rượu | đầy bụng khó tiêu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét